(copy tu webtretho)
1. Nói ít, làm nhiều
Thống kê cho thấy mỗi ngày trẻ em nhận được khoảng
2000 mệnh lệnh hay yêu cầu của người lớn. Do vậy, nếu trẻ em trở nên
‘điếc’ trước cha mẹ thì âu cũng là điều dễ hiểu. Thay vì quát tháo, la
hét, rầy la, kêu ca, cằn nhằn, cha mẹ hãy tự hỏi: ‘Ta cần LÀM gì?’ Ví
dụ, thay vì cằn nhằn về việc trẻ em không lộn tất ra khi cởi ra, hãy chỉ
giặt những cái đã lộn. Hành động thường hiệu quả hơn lời nói. (Action
speaks louder than words).
2. Tách biệt hành vi và thủ phạm
Đừng bao giờ bảo trẻ em là chúng xấu/hư vì điều này sẽ làm hỏng lòng
tự trọng của trẻ. Hãy giúp trẻ em nhận ra rằng không phải chúng ta không
thích hay không yêu nó mà là chúng ta không tán thành hay thấy khó chấp
nhận hành vi của nó. Để trẻ có lòng tự trọng, chúng cần phải biết rằng
chúng được yêu thương vô điều kiện, bất chấp chúng làm cái gì. Đừng bao
giờ rút lại tình yêu thương dành cho chúng với hy vọng điều đó sẽ làm
chúng sẽ ngoan lên.
3. Tạo cho trẻ cơ hội để thể hiện quyền lực
Nếu không, chúng sẽ tự tìm ra những cách không thích hợp để thể hiện!
Những cách có thể làm trẻ em cảm thấy mình có quyền lực và thấy mình là
người đáng giá là: hỏi kiến của chúng, để chúng tự chọn lựa, để chúng
giúp những việc chúng có thể làm được, yêu cầu chúng giúp đỡ hay cố
vấn… Một đứa trẻ 2 tuổi có thể rửa bát đĩa nhựa, nhặt rau, hay cất bát
đũa đi. Thông thường, người lớn làm thay cho chúng bởi vì chúng ta có
thể làm nhanh gọn hơn, nhưng hậu quả lại là làm cho trẻ cảm thấy chúng
không quan trọng.
4. Chỉ can thiệp khi thực sự cần thiết
Trước mỗi tình huống chúng ta hãy tự hỏi: điều gì sẽ xảy ra nếu chúng
ta không can thiệp? Nếu chúng ta can thiệp một cách không cần thiết thì
vô tình chúng ta đã làm mất đi cơ hội để trẻ rút kinh nghiệm từ hành
động của chúng. Bằng cách để cho các hậu quả xảy ra, chúng ta còn tránh
được việc gây tổn hại đến quan hệ của chúng ta với trẻ khi chúng ta cằn
nhằn nhắc nhở chúng quá nhiều. Chẳng hạn, nếu trẻ quên không mang đồ ăn
trưa, chúng ta không nên mang đến cho chúng. Hãy để nó tự tìm ra giải
pháp và biết việc cần ghi nhớ quan trọng thế nào.
5. Rút lui khi có xung đột
Nếu trẻ nắn gân chúng ta bằng cách hờn dỗi, cáu giận, hay nói năng vô
lễ, cách tôt nhất là chúng ta rút lui khỏi chỗ đó hoặc nói với chúng
rằng chúng ta ở phòng cạnh nếu chúng muốn làm lại (try again). Không nên
tỏ thái độ bực tức hay thất bại khi rút lui. Nếu cha mẹ cảm thấy không
thể rút lui được hay không kiềm chế được thì hãy ngồi yên và đếm từ 1
đến 10 để hạ hỏa!
6. Dành thời gian chơi và nói chuyện với trẻ
Người lớn, vì nhiều lí do, thường không chịu lắng nghe hay chỉ giả vờ
nghe những gì trẻ nói. Đó cũng là một trong những lí do trẻ em trở nên
hư và nhiều hậu quả tình cảm khác. Dành thời gian với trẻ sẽ giúp chúng
phát triển lòng tự tin và tự trọng, nhưng nên nhớ rằng cái quan trọng là
chất lượng chơi và nói chuyện chứ không phải là thời gian chơi nhiều
hay ít. Cũng cần phải thừa nhận rằng cảm xúc thì không có gì là sai hay
đúng cả. Do vậy, nếu bé nói ‘Mẹ ơi, mẹ chả bao giờ chơi với con cả!’ cho
dù bạn vừa mới chơi với bé, hãy hiểu rằng chúng chỉ đang bày tỏ cảm xúc
của chúng thôi. Trong trường hợp này, cách tốt nhất là xác nhận cảm xúc
đó của bé bằng cách nói, ‘Ừ nhỉ, hình như đã lâu lắm rồi mẹ con ta chưa
chơi với nhau thì phải.’
7. Thông báo trước cho trẻ
Việc trẻ em hờn dỗi có thể làm nhiều cha mẹ nổi cơn tam bành. Trẻ
thường hờn dỗi khi chúng cảm thấy bất lực và không được thông báo trước.
Thay vì bảo bé phải ngừng chơi ngay để đi về nhà, chúng ta hãy thông
báo cho bé biết là bé còn 5 phút hay 10 phút nữa – thời gian này cho
phép bé làm nốt những gì đang làm dở và cũng là để chuẩn bị tâm lí cho
bé.
8. Né tránh xung đột khi xảy tranh tranh giành quyền lực
Bước đầu tiên là né tránh. Một bà mẹ yêu cầu con gái 3 tuổi đi ngủ vì
đã đến giờ. Bé trả lời, ‘Không!’ Cảm thấy mình bị thách thức, bà mẹ
liền nói, ‘Con muốn tự đi lên phòng hay con muốn mẹ bế con lên phòng
nào?’ ‘Con muốn mẹ bế con trồng cây chuối và cù con khi bế con lên
phòng’, bé trả lời.
Bà mẹ đã nhận ra tín hiệu ‘thách đấu’ của bé và đã né tránh xung đột
(không tham gia tranh giành quyền lực mà cũng không nhượng bộ) và đã kết
thúc có hậu. Bằng việc né tránh xung đột, chúng ta muốn chuyển đến bé
thông điệp rằng: ‘Mẹ sẽ không ‘chiến đấu’ với con đâu, mẹ cũng không làm
con tổn thương đâu, mẹ cũng không tỏ quyền lực với con đâu, nhưng mẹ
cũng không nhượng bộ con đâu!’
9. Cho trẻ em lựa chọn chứ không ra lệnh
Sau khi đã né tránh tranh giành quyền lưc, bước tiếp theo là đưa ra
những sự lựa chọn chứ không phải mệnh lệnh. Một ông bố muốn thay tã cho
con 18 tháng nhưng bé phản đối đã cho bé chọn được thay tã ở phòng nào.
Bé chọn một phòng, nhưng ngay sau khi vào phòng bé lại không muốn thay
tã nữa. Ông bố tiếp tục cho bé chọn được thay ở giường nào, bé chỉ vào
một giường, thế là việc thay tã đã được thực hiện và ‘cuộc ‘đấu tranh
giành quyền lực đã kết thúc một cách nhẹ nhàng.
Khi đưa ra những sự lựa chọn cho trẻ, phải đảm bảo rằng những sự lựa
chọn đó là chấp nhận được. Đừng bắt trẻ phải chọn giữa ngồi yên và rời
khỏi nhà hàng nếu bạn không có định rời nhà hàng.
Cũng phải đảm bảo rằng bạn không đưa ra quá nhiều sự lựa chọn độc
đoán. Một lựa chọn độc đoán là một lựa chọn quá hẹp làm trẻ thấy không
còn chút tự do nào. Mặc dù lựa chọn hẹp cũng có thể có lợi cho trẻ trong
một số tình huống nhất định, tốt hơn là nên cố gắng đưa ra những lựa
chọn gọi mở mỗi khi có thể.
Những sự lựa chọn cũng không nên có yếu tố trừng phạt trong đó. Chẳng
hạn, bảo bé rằng, ‘Hoặc con nhặt đồ chơi lên hoặc con ra toa-lét’ sẽ
làm trẻ cảm thấy sợ hãi bị đe dọa hơn là cho trẻ cơ hội thể hiện quyền
lực.
10. Cả hai cùng thắng
Các cuộc tranh giành quyền lực thường đi đến kết cục một người thắng
một người thua – một kết cục không phải lúc nào cũng hay ho như thường
tưởng. Một giải pháp ‘cả hai cùng thắng’ là giải pháp trong đó cả hai
phía đều cảm thấy mình đạt được cái mình muốn. Để cả hai bên cùng thắng
đòi hỏi phải có sự mặc cả thương lượng. Cha mẹ có thể đáp lại yêu cầu
của trẻ bằng cách nói, ‘Con thắng như vậy cũng được đấy, và mẹ muốn con
thắng. Nhưng mẹ cũng muốn thắng. Con có thể nghĩ ra cách gì để cả hai mẹ
con ta cùng thắng không?’
11. Sự bất lực nuôi dưỡng tư tưởng muốn trả thù
Những trẻ em bị tước đoạt hết quyền lực, cảm thấy bất lực, thường tìm
cách giành lại quyền lực bằng cách trả thù. Chúng sẽ tìm cách gây tổn
thương cho người khác khi chúng cảm thấy bị tổn thương, và chúng thường
có những hành vi mà cuối cùng lại làm tổn thương bản thân chúng. Khi 2-3
tuổi, sự trả thù có thể có hình thức cãi lại hay cố đánh đổ đồ ăn. Ở
tuổi 16-17, có thể là dùng các chất bị cấm hay uống rượu, trốn đi khỏi
nhà, thậm chí tự tử. Hãy cố gắng tạo cơ hội thích hợp cho trẻ được thực
hành và thể hiện quyền lực của mình. Đó cũng là cách để chúng tập đưa ra
những quyết định đúng đắn và xây dựng lòng tự tin.
12. Đánh trẻ có tác hại gì?
- Làm cho trẻ cảm thấy phẫn uất, bực tức.
- Làm cho trẻ trở nên lì đòn, ngang ngạnh, cứng đầu, thách thức mọi người.
- Làm cho trẻ cảm thấy bị nhục nhã, gây tổn hại cho lòng tự tin.
- ‘Dạy và huấn luyện’ cho trẻ biết cách dùng bạo lực để đoạt được cái gì đó.
- Có thể gây thương tích cho trẻ.
Bạo lực sẽ quay vòng, sẽ kéo theo bạo lực. Bạo lực cấp 1 rồi sẽ đòi hỏi bạo lực cấp 2. Hãy ghi nhớ ‘lạt mềm buộc chặt’.
13. Khen trẻ thế nào?
Tình thương yêu, vẻ mặt, cử chỉ, ngôn từ của chúng ta giúp trẻ xây
dựng một hình ảnh được yêu và đáng yêu về bản thân chúng. Khen ngợi sẽ
khuyến khích trẻ đương đầu với những thách thức mới và bật lại mỗi khi
sự việc không diễn ra như chúng muốn. Ai mà chả thích được khen. Nhưng
khen thế nào để đạt hiệu quả?
Lời khen của chúng ta sẽ có tác dụng nếu chúng ta tiến lại gần đứa
trẻ, thu hút sự chú của nó bằng cách gọi tên nó và nhìn thẳng vào mắt
nó rồi nói rõ ràng chính xác là chúng ta thích cái gì. Ví dụ, ‘Jane, thế
là con biết đánh răng rồi. Tốt/Khá lắm’. Hoặc ‘Chip, cảm ơn con đã giúp
mẹ thu dọn đồ chơi. Con làm tốt lắm’. (xem thêm mục 14)
Lời khen của chúng ta sẽ phản tác dụng nếu trẻ cảm thấy nó không chân
thành, không tương xứng với vẻ mặt và giọng nói của chúng ta. Nên tránh
khen rồi lại đèo thêm một chỉ trích sau đó vì điều này sẽ làm lời khen
mất hết tác dụng. Chẳng hạn, xin đừng nói, ‘Roy, con thu giường giỏi quá
– thật đáng xấu hổ là con không làm như thế hàng ngày!’ hay ‘Lily, con
biết tự ăn rồi đấy – thật đáng tiếc là hôm qua con lại đánh vào mặt
Mary!’
14. Khen đánh giá hay khen miêu tả? (evaluative or descriptive)
Ví dụ:
- Đánh giá: Con mẹ vẽ đẹp quá!/Con mẹ khỏe quá!
- Miêu tả: Mẹ rất thích những chi tiết con dùng trong bức tranh này.
Những màu con chọn cũng rất sống động./ Cái túi nặng quá! Cảm ơn con đã
giúp mẹ!
Các nhà sư phạm/tâm lí khuyên các bậc cha mẹ nên sử dụng lời khen
miêu tả thay cho lời khen đánh giá vì lí do sau. Lời khen đánh giá làm
trẻ trở nên lệ thuộc vào sự đánh giá và phê chuẩn của người lớn. Chúng
mong đợi chúng ta đánh giá thẩm định những việc làm hay hành vi của
chúng là tốt hay xấu là được hay chưa được, do vậy chúng sẽ không phát
triển được khả năng tự đánh giá và tính độc lập. Chúng dần mất đi khả
năng tự đánh giá hành vi của bản thân mình và luôn trông chờ sự đánh giá
‘chấm điểm’ của người lớn.
Khen miêu tả là tạo cơ hội để trẻ được tự đánh giá mình – nói theo
cách nhiều người thường nói là để trẻ được âm ỉ thỏa mãn trong lòng. Nếu
bạn muốn con gái mình tập trung chú vào hiệu quả của việc nó vừa làm
với bạn Mary, bạn có thể nói, ‘Con nhìn Mary kìa! Bạn ấy trông thật là
vui vì con đã cho bạn ấy mượn đồ chơi.’ Bằng cách này, chúng ta giúp trẻ
nhận ra hành vi của chúng có tác động như thế nào lên người khác.
Một lời khen miêu tả thường có hai phần. Phần thứ nhất bạn nói những
gì bạn nhìn thấy hay nghe thấy. Phần thứ hai nói bạn cảm thấy thế nào.
Ví dụ: Mẹ thấy phòng của con hôm nay rất gọn gàng. Mẹ cảm thấy không mệt
nữa.’ hoặc ‘Con làm đúng như mẹ yêu cầu. Cảm ơn con’.
Kết luận: hãy hạn chế khen vã (khen đánh giá) và hãy tập và
tăng cường khen miêu tả. Nhưng hãy ghi nhớ: đừng bao giờ dùng lời khen
miêu tả khi bạn nóng giận vì khi đó nó sẽ có vẻ như mỉa mai nói móc. Và
cũng không khen những gì đã trở thành thói quen tốt.